Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

Lễ Ăn Hỏi

Lễ ăn hỏi còn được gọi là lễ đính hôn là một nghi thức trong phong tục hôn nhân truyền thống của người Việt. Đây cũng là cột mốc quan trọng trong hôn nhân của đôi bạn trẻ, từ đây họ sẽ chính thức trở thành vợ chồng sắp cưới và chỉ chờ đến ngày tổ chức hôn lễ với sự góp mặt đông đủ của họ hàng, bạn bè hai bên.
Trong chẵn ngoài lẻ
Trong các thủ tục ngày cưới của người Việt Nam, lễ ăn hỏi được coi trọng nhất và phần chuẩn bị lễ vật để nhà trai đưa tới nhà gái sẽ được quan tâm đặc biệt bởi các vật phẩm này sẽ thể hiện sự chu đáo của nhà trai.  
mamquale_hoi1.jpg 
Lễ vật ăn hỏi miền Bắc thường trong chẵn ngoài lẻ 
Theo truyền thống từ xưa tới nay, lễ vật sẽ được đựng trong các mâm sơn son thiếp vàng, gọi là tráp. Ở miền Bắc ( các tỉnh, thành từ Huế trở ra), nhà trai khi chuẩn bị đám hỏi sẽ phải chuẩn bị tráp lễ vật mà số lượng tráp là lẻ, có thể từ 3 tráp, 5 tráp, 7 tráp, 9 tráp, có những gia đình chọn tới 11, 15 tráp).  Trong các tráp, số lượng vật phẩm phải là số chẵn (ví dụ như 100 chiếc bánh cốm, 100 gói chè sen). 
Sở dĩ số lượng mâm quả trong lễ ăn hỏi ở miền Bắc luôn luôn là số lẻ và số lễ trên mâm quả thì nhất thiết phải là số chẵn, luôn đi theo cặp  bởi số lẻ tượng trương cho sự phát triển, còn số chẵn tượng trưng cho việc có cặp có đôi. Sắp xếp như vậy với ý niệm cầu chúc và mong muốn cho cặp vợ chồng trẻ luôn luôn có nhau và cùng nhau sinh con đàn cháu đống, sống đến đầu bạc răng long.
Các tráp lễ vật thường có:
  • Trầu Cau
  • Bánh cốm
  • Chè
  • Hạt sen
  • Rượu
  • Thuốc lá 
  • Bánh xu xê (phu thê)
  • Trái cây
  • Phong bì tiền (lễ đen) được để vào một tráp riêng hoặc để chung vào với tráp trầu cau khi nhà trai mang sang nhà gái
Số lượng tráp mâm quả và các loại lễ vật cụ thể thường do nhà gái sẽ đưa ra yêu cầu (thách cưới), tùy thuộc vào từng gia đình.
Sách Thọ Mai Gia Lễ ra đời giữa thế kỷ 18 . Sách Việt Nam Phong Tục Tập Quán của học giả Phan Kế Bính ( vào đầu thế kỷ 20 ) cũng đã nói về điều này . Nhưng người ta còn chỉ rõ cô dâu chú rể ở tuổi nào thì dùng 3,5,7,9,11 tráp chứ không hổ lốn như ngày nay . Sách cũng chỉ rõ rất ít khi người ta dùng 7 tráp lễ . Vì theo quan niệm người Trung Quốc ( Thất Lễ ) .Đối với người Việt từ xa xưa rất coi trọng Ngũ Phúc nên người ta dùng 5 tráp lễ là phổ biến. Nó đặc trưng cho Phúc- Lộc Thọ - Hỷ - Tài. ( Hay Phúc - Lộc Thọ - Khang - Ninh )
Bài trí lễ vật trong các tráp
Dù số lượng từ ít là 3 tráp đến nhiều là 11 tráp thì mâm trầu cau truyền thống là mâm không thể thiếu được trong lễ ăn hỏi. “Miếng trầu mở đầu câu chuyện”, là vật lễ dẫn dắt đầu tiên rồi mới đến những loại mâm lễ khác. Sau đó tùy vào số lượng tráp cưới mà người ta chọn lựa các lễ vật khác cho lễ ăn hỏi.
mamquale_hoi2.jpg
Mâm trầu cau không thể thiếu trong lễ vật ăn hỏi  
  • Lễ ăn hỏi 3 tráp thường có: mâm trầu cau (không thể thiếu), mâm chè, mâm hạt sen.
  • Lễ ăn hỏi 5 tráp thường có: mâm trầu cau (không thể thiếu), mâm chè, mâm hạt sen, mâm rượu và thuốc lá, mâm bánh cốm.
  • Lễ ăn hỏi 7 tráp thường có: mâm trầu cau (không thể thiếu), mâm chè, mâm bánh cốm, mâm rượu và thuốc lá, mâm hạt sen, mâm bánh phu thê, mâm bánh đậu xanh.
  • Lễ ăn hỏi 9 tráp thường có: mâm trầu cau (không thể thiếu), mâm chè, mâm bánh cốm, mâm rượu và thuốc lá, mâm hạt sen, mâm bánh phu thê, mâm bánh đậu xanh, lẵng hoa quả kết rồng phụng, mâm lợn sữa quay.
  • Lễ ăn hỏi 11 tráp thường có ít nhà chọn lựa, và ngoài những mâm quả như lễ 9 tráp, người ta có thể thêm vào đó những vật lễ khác, chẳng hạn như: tháp bia lon, mâm bánh nướng bánh dẻo, mâm xôi gấc trang trí đậu xanh… Tất cả các lễ vật được sắp xếp rất đẹp, theo hình tháp, bày trong mâm quả sơn son thếp vàng, phủ khăn rồng phụng màu đỏ.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét